Việc hôn sự giữa Tần Sanh và Tạ Hoàn rất nhanh đã được định đoạt. Tần phu nhân lúc đầu chưa rõ Tần Sanh để mắt tới vị công tử nào của Tạ phủ, đến khi gặp được Tạ Hoàn, chỉ thấy đứa trẻ này ôn hòa lễ độ, sau lại nguyện ý lưu lại Biện Kinh, bà liền không còn chút do dự nào.
Liên Khâm Hầu lúc này đã được phong làm Trấn Quốc Công, ở Bắc Đình còn nhiều trọng sự không thể trở về Biện Kinh để chủ hôn cho nhi tử, Tạ phu nhân được Tạ Trì hộ tống hồi kinh, đích thân đến Tần phủ bái phỏng.
Tần phu nhân và Tạ phu nhân vừa gặp đã như tri kỷ, đối với mối nhân duyên này càng thêm hài lòng.
Tạ gia vốn đã có phủ đệ tại kinh thành, cũng đỡ phải phí công chuẩn bị phủ mới cho đại hôn.
Chỉ là Tần Giản vẫn chưa thành thân, nên hôn kỳ của Tần Sanh và Tạ Hoàn định vào tháng Ba năm sau.
Nay cả hai đều ở trong thành Biện Kinh, Tạ phủ so với trước kia càng thêm siêng năng đưa đồ sang Tần phủ, từ trang sức bài trí lớn lao cho đến điểm tâm hoa quả nhỏ nhặt, hễ có thứ gì tốt đều không quên dâng một phần sang Tần phủ.
Để đáp lễ, Tần gia cũng phái người đưa không ít lễ vật đến Tạ phủ, quan hệ giữa hai bên ngày càng thân thiết.
Theo tục lệ của Đại Sở, nam nữ sau khi đính ước, trước khi thành thân không được gặp gỡ riêng tư.
Tạ Hoàn ngoài việc sai người đưa đồ đến Tần phủ, tuyệt nhiên chưa từng hẹn Tần Sanh ra ngoài, chỉ là mỗi lần Tần Sanh đến phủ nữ quân để giao nhận sổ sách, trên đường đều có thể “tình cờ gặp được” Tạ Hoàn.
Xe ngựa hai nhà đều đi rất chậm, dù Tần Sanh cố kiêng kỵ lễ nghi không thể cùng Tạ Hoàn nhiều lời, nhưng thỉnh thoảng vén rèm xe lên, phát hiện xe ngựa của hắn từ tốn theo sau xe mình, khóe môi nàng vẫn không nhịn được mà khẽ cong lên.
Từ khi Tần Giản nắm được sơ hở của nhà họ Từ, đã lập tức dâng sớ vạch tội, Từ phu nhân không bao lâu sau liền đích thân đến Tần phủ xin lỗi. Đúng như Phí Văn Nhạn từng dự đoán, nhà họ Từ đổ hết sai lầm lên đầu bà mối từng làm trung gian.
Tần phu nhân cũng không làm khó Từ phu nhân quá đáng, chỉ là việc Từ phu nhân biện minh cho bản thân, trách rằng là do bà mối nói năng hồ đồ, lại truyền ra ngoài.
Người được nhà họ Từ mời làm mai chính là phu nhân của Ninh Viễn Hầu. Tuy phủ Ninh Viễn Hầu vẫn còn treo bảng hiệu hầu phủ, nhưng đã sa sút từ đời trước, con cháu đời này cũng không có ai ra hồn, tước vị khó giữ, ở kinh thành vẫn luôn thuộc về tầng lớp chẳng dính tới quyền quý thượng tầng, lại bị bọn tiểu quan dưới trướng tranh nhau nịnh nọt, lâm vào tình cảnh khó xử.
Nhưng người ta vẫn nói “lạc đà gầy còn to hơn ngựa”, phu nhân Ninh Viễn Hầu là người khéo léo trong quan hệ, trong giới quyền quý ở Biện Kinh vẫn có chút thể diện.
Nhà họ Từ vì muốn tự bảo vệ mình, đã nói xấu phu nhân Ninh Viễn Hầu với nhà họ Tần, bà ta sao có thể nhịn được cơn giận này?
Năm xưa bà ta quả thực nhận ân huệ của nhà họ Từ, mới trong lúc chơi bài “vô tình” để lộ miệng, hàm hồ nói rằng Tần gia có vẻ ưng ý Đại công tử nhà họ Từ làm rể hiền.
Nhưng nếu đem so với việc đắc tội Tần gia, thì kết oán với nhà họ Từ có đáng gì?
Phu nhân Ninh Viễn Hầu cũng không phải kẻ đơn giản, tại bàn bài liền chỉ sang nói móc: “Chẳng phải vì kén thê cho con trai nhà mình, ta đâu đến nỗi nhiều chuyện mà đi đắc tội Tần gia? Những kẻ hay âm thầm kiếm lợi bây giờ lại diễn vở ‘kẻ trộm hô bắt trộm’, thật là tức cười!”
Người hiểu chuyện nghe ra ngay, bà ta đang ngầm mỉa mai nhà họ Từ.
Nhưng quả đúng như lời phu nhân Ninh Viễn Hầu nói, bà ta liều mình đắc tội với Tần gia để giúp nhà họ Từ, mà nhà họ Từ lại vờ như không biết gì, chuyện này mà kể ra ai tin cho được?
Họ Từ từ đó hoàn toàn không thể ngẩng đầu nổi trong giới quý phụ kinh thành, dứt khoát viện cớ bệnh tật, đem hết thiệp mời yến tiệc đều từ chối sạch.
Tần Sanh nghe chuyện, biết mẫu thân mình là người khoan hậu, xưa nay luôn giữ đạo “có thể tha thì tha”. Họ Từ bị cô lập đến mức này, chỉ sợ lời đồn đến tai phu nhân Ninh Viễn Hầu năm đó, không phải do Tần phu nhân cố tình sắp đặt người lan truyền.
Một hôm nàng đến chùa lễ Phật, lại “tình cờ gặp được” Tạ Hoàn, liền không nhịn được mà hỏi: “Chuyện nhà họ Từ, có phải là do chàng làm không?”
Tạ Hoàn không chút giấu diếm: “Phải.”
Tần Sanh khẽ xoắn khăn tay trong lòng bàn tay, khuyên nhủ: “Có thể tha thì nên tha, chàng mới hồi kinh, chớ nên kết thù với người khác.”
Tạ Hoàn nhìn nàng, chậm rãi nói: “Họ Từ toan tính dùng thủ đoạn đó ép nàng gả cho bọn họ, đến lúc lên cửa nhận lỗi vẫn không chịu hối cải, còn đổ hết tội lỗi lên người khác. Bọn họ muốn kéo thù oán giữa nhà mình và phủ Ninh Viễn Hầu, ta chẳng qua chỉ sai người đem mấy việc tốt lành họ làm phơi bày ra thôi.”
Hắn hơi rũ mắt, bên môi mang theo ý cười: “Nàng sợ ta đắc tội với nhà họ Từ, là đang lo cho ta sao?”
Tần Sanh mặt đỏ ửng lên, khe khẽ đáp: “Không phải đâu.”
Tạ Hoàn cũng không vạch trần nàng miệng nói một đằng lòng nghĩ một nẻo: “Ta đã quyết định cưới nàng rồi, nàng còn sợ ta không đối phó được một nhà họ Từ ư?”
Tần Sanh lúc này mặt mũi đỏ bừng đến tận mang tai.
Tạ Hoàn được nước lấn tới, cười nói: “Nhị đệ đã xin được một dải tua từ tay Phí Quận chúa, Sanh nhi cũng có muốn tặng ta thứ gì không?”
Tần Sanh nhất thời quên cả thẹn thùng, vẻ mặt đầy nghi hoặc: “Văn Nhạn đã tặng cho Tiểu Hầu gia dải tua ư?”
Ở Bắc Đình nàng quen gọi là Tiểu Hầu gia, tạm thời chưa sửa được cách xưng hô.
Tạ Hoàn gật đầu, ánh mắt có hàm ý nhìn nàng: “Gần đây hắn vẫn luôn đeo bên hông, cái đuôi như sắp dựng ngược cả lên rồi.”
Tần Sanh sao lại không nhận ra hắn đang mượn cớ đòi mình tặng quà, để về khoe khoang một phen. Người tưởng như trầm ổn này, hóa ra cũng có lúc trẻ con đến thế. Tần Sanh nhịn cười, khẽ đáp: “Vậy ta sẽ thêu cho chàng một túi thơm.”
…
Lễ Phật trở về, Tần Sanh liền đến ngay phủ nha của nữ quân. Vừa hay Phí Văn Nhạn và Lâm Chiêu đều có mặt.
Nữ quân cấm vệ nay đã vượt qua tuyển chọn, chính thức được điều vào hoàng cung. Lâm Chiêu sau bao tháng bận rộn, cũng đã được thư thả đôi chút.
Ba người xưa nay thân thiết, có gì nói nấy, Tần Sanh cũng không giấu giếm Lâm Chiêu, vừa trông thấy Phí Văn Nhạn liền hỏi: “Văn Nhạn, nghe nói tỷ tặng cho Tạ Tiểu Hầu gia… không, giờ phải gọi là Tạ Tiểu công gia mới đúng…”
Nàng quá nóng lòng muốn biết đầu đuôi sự việc, cũng chẳng kịp sửa lại cách xưng hô, “Tỷ tặng chàng ấy một dải tua, chuyện này là thế nào?”
Phí Văn Nhạn đang cầm bút giúp Lâm Chiêu chép lại văn thư, nghe vậy liền cụp mắt nhìn về phía Lâm Chiêu, nói: “Chuyện này phải hỏi A Chiêu mới được.”
Tần Sanh đành mang vẻ mặt mờ mịt quay sang nhìn Lâm Chiêu.
Lâm Chiêu nằm vật trên ghế tròn như không còn xương cốt, trên mặt phủ một quyển sách, từ tóc tai cho đến gót chân đều toát ra hai chữ: “chán đời”.
Nguồn cơn của mọi việc là do Lâm Chiêu muốn tìm nơi thuận tiện để uống rượu, thường lui tới hí viện nghe hát.
Trong hí viện có một tiểu sinh mặt trắng dáng dấp tuấn tú, được các quý phụ và tiểu thư quyền quý trong kinh vô cùng yêu thích. Nhưng dẫu có được bao nhiêu sủng ái, hắn chung quy cũng chỉ là một kép hát. Quý phụ thì có gia thất, tiểu thư còn phải gả cho lang quân như ý, nhiều nhất cũng chỉ thưởng cho hắn chút bạc lẻ.
Lâm Chiêu thì khác. Nàng là võ tướng tứ phẩm triều đình, trên chỉ có một người huynh trưởng, trong kinh thường có người đùa rằng nàng chắc phải kén rể.
Kép hát ấy cũng tinh ý vô cùng, toàn tâm toàn ý lấy lòng Lâm Chiêu. Mỗi lần hát xong trên đài, sau khi tẩy đi lớp phấn son, hắn thường đến phòng nhã tọa của Lâm Chiêu hát riêng vài khúc cho nàng nghe.
Phí Văn Nhạn nghe phong thanh, hứng thú kéo Lâm Chiêu đi nghe hát chung.
Muốn xem thử một người là nữ tướng có chức tước trong triều, một người là quận chúa do Thiên tử thân phong, rốt cuộc kép hát kia sẽ lấy lòng ai.
Tần Sanh đã đính hôn, những chuyện thế này đương nhiên bị hai người họ cố ý gạt ra ngoài. Nếu chẳng may truyền ra, sẽ ảnh hưởng đến thanh danh của nàng.
Không may thay, đúng lúc kép hát kia đang gảy đàn hát khúc trong phòng riêng, thì toàn bộ hí viện bị quan binh bao vây. Nghe nói quan phủ đang truy bắt đạo tặc, thấy kẻ trộm chạy vào hí viện.
Để lục soát tên trộm, quan binh tiến vào hí viện lục từng phòng một.
Ừm, người đích thân dẫn quân bắt trộm lại là nội các học sĩ – Tằng Đạo Khê.
Dù hiện nay phong khí Đại Sở đã cởi mở hơn xưa, nhưng triều đình đang đề xướng liêm chính, quan viên ngầm thiết yến mời người hát hò vẫn sẽ bị đàn hặc, huống chi Lâm Chiêu còn là nữ tướng đầu tiên trong triều đình.
Lâm Chiêu và Phí Văn Nhạn liền đồng loạt chuồn lẹ.
Tường cao phía sau viện không thể cản nổi Lâm Chiêu, nhưng Phí Văn Nhạn thì không biết võ. Lâm Chiêu phải cúi người cho Phí Văn Nhạn giẫm lên vai trèo tường, thì quan binh đã bắt đầu lục soát đến hậu viện.
Phí Văn Nhạn sợ Lâm Chiêu bị bắt rồi sáng hôm sau bị dâng sớ đàn hặc tại Kim Loan điện, liền bảo Lâm Chiêu mau mau rời đi trước.
Đúng lúc đó, Tạ Trì thong dong cưỡi ngựa ngang qua nơi này, hô lớn: “Nghĩa muội cứ đi trước, để ta giúp Quận chúa trèo xuống.”
Mấy người như Lâm Chiêu và Phí Văn Nhạn đều từng ở Bắc Đình, tính tình của Tạ Trì cũng rõ. Hơn nữa, Lâm Chiêu sau khi cứu Liên Khâm Hầu, đã được ông thu làm nghĩa nữ, lại thêm việc Tần Sanh và Tạ Hoàn đã đính hôn, nên Lâm Chiêu cũng khá tin tưởng Tạ Trì. Nàng nói một tiếng cảm tạ rồi phóng mình qua tường như bị chó đuổi.
Chỉ còn lại mình Phí Văn Nhạn ngồi chênh vênh trên tường, cắn răng nói với Tạ Trì: “Làm phiền Tiểu công gia gọi người mang thang tới.”
Tạ Trì khoanh tay, lười biếng ngẩng đầu: “Quận chúa chỉ là đến nghe hát thôi mà, sao phải trèo tường?”
Dẫu Phí Văn Nhạn có trấn định tự chủ thế nào, nghe câu này của Tạ Trì – rõ ràng biết còn giả vờ ngốc – cũng suýt nữa sụp đổ.
Nàng và Lâm Chiêu đêm hôm khuya khoắt còn ở hí viện, truyền ra ngoài cũng chẳng hay ho gì.
Phí Văn Nhạn cố gắng giữ nét mặt nghiêm trang, nghiêm chỉnh bịa lời: “Lâm tiểu tướng quân giúp quan phủ bắt trộm, ta cùng nàng đến hỗ trợ, tiếc là võ nghệ không đủ, chẳng giúp được gì.”
Truyện được dịch đầy đủ tại maivangtet.vn
Khóe miệng Tạ Trì hơi nhếch lên: “Đã là giúp bắt trộm, thì chờ Tằng đại nhân đến, giúp Quận chúa xuống cũng không sao cả.”
Phí Văn Nhạn chậm rãi nghiến răng sau, miễn cưỡng duy trì nụ cười trên mặt: “Dù sao thì… cũng có chút không hợp lễ nghi.”
Tạ Trì khẽ “ồ” một tiếng, rốt cuộc cũng lộ ra chiếc đuôi hồ ly: “Ta giúp Quận chúa xuống, vậy vật mà Quận chúa từng hứa cho ta, chừng nào thì thực hiện được?”
Phí Văn Nhạn liếc thấy ánh đuốc phía xa đang dần áp sát hậu viện, sống lưng cũng căng cứng lại. Nghĩ ngợi một hồi mới nhớ ra trước đó hắn từng khen chiếc tua nàng thắt đẹp, liền vội nói: “Ta về phủ rồi sẽ sai người đưa sang cho Tiểu công gia.”
Ánh mắt Tạ Trì rơi xuống chiếc hương nang nơi thắt lưng nàng: “Ta sợ Quận chúa bận rộn dễ quên, chi bằng bây giờ đưa luôn cho ta?”
Có lẽ là do những giấc mộng liên quan đến hắn cứ quấy nhiễu, Phí Văn Nhạn cảm thấy quá mức quen thuộc với hắn, đến nỗi lời nói có phần suồng sã kia cũng không khiến nàng nổi giận như lẽ thường.
Nàng chỉ hơi do dự, rồi liền tháo hương nang bên hông ném cho hắn: “Cho chàng.”
Tạ Trì mắt sáng tay nhanh đón lấy. Ngửi thấy hương thơm trong hương nang có mùi quen lạ khó tả, ánh mắt hắn tối lại, nhưng sau khi tháo dải tua màu đỏ trên đó, lại đưa chiếc hương nang màu tím nhạt trả lại cho nàng.
Dưới ánh mắt kinh ngạc của Phí Văn Nhạn, hắn giơ cao dải tua trong tay: “Ta đã nói chỉ cần dải tua, sẽ không đòi thêm gì khác từ nàng.”
Ánh trăng rằm đổ xuống khuôn mặt mang theo vài phần khí chất trẻ con pha chút ngông nghênh của Tạ Trì, khiến Phí Văn Nhạn chợt ngẩn ngơ.
Trong giấc mộng, hắn lạnh lùng tàn nhẫn là thế, hóa ra khi chưa trải qua bao biến cố, hắn cũng chỉ là một thiếu niên tuấn tú cưỡi ngựa trong gió xuân.
Khi Phí Văn Nhạn còn chưa kịp hoàn hồn, Tạ Trì đã ngẩng đầu hô: “Nàng nhảy xuống đi, ta đỡ lấy.”
Phí Văn Nhạn nhíu đôi mày thanh tú: “Nam nữ thụ thụ bất thân, Tiểu công gia vẫn nên tìm thang giúp ta thì hơn.”
Tạ Trì hỏi lại: “Nàng cảm thấy ta kịp quay về lấy thang rồi quay lại sao?”
Đúng lúc đó, một quan binh lục soát hí viện đã trông thấy người đang ngồi trên tường, lớn tiếng hô: “Trên tường có người! Chắc chắn là đạo tặc, mau bắt!”
Phí Văn Nhạn cắn răng một cái, dứt khoát nhảy xuống khỏi tường.
Nàng quả thật không ngã xuống đất, nhưng thân thể va mạnh vào lồng ngực kia, nơi ngực cũng dường như bị đụng phải một nhịp rung động khác.
Nàng không dám ngẩng đầu nhìn Tạ Trì, chỉ nghe thấy giọng nói vang lên trên đỉnh đầu: “Phí Quận chúa thích dạng thư sinh nho nhã sao?”
Một tay Phí Văn Nhạn vẫn còn nắm lấy vạt áo hắn, tư thế bị bế ngang như vậy, chỉ cần Tạ Trì hơi cúi đầu, hơi thở của hắn đã tràn ngập bên tai.
Phí Văn Nhạn chỉ cảm thấy trái tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực.
Điều nàng không biết là, Tạ Trì – người xưa nay thanh tâm quả dục, trong đầu chỉ toàn ngựa chiến và binh khí – từ lúc nhặt được chiếc hương nang của nàng ở Bắc Đình, ngửi thấy mùi hương quen thuộc ấy, đã thường xuyên mộng thấy những giấc mộng kiều diễm.
Trong mộng, người khiến hắn cam tâm tình nguyện đem cả tính mạng phó thác nơi giường chiếu, chính là nàng.
Giờ phút này, người thật đang nằm gọn trong lòng, Tạ Trì chỉ cảm thấy mình đang ôm một củ khoai nóng bỏng tay, cổ họng khô khốc, chưa kịp đợi Phí Văn Nhạn đáp lời đã vội buông nàng ra, lùi lại một bước.
Sau đó, trên đường tiễn Phí Văn Nhạn về phủ, hắn lại cực kỳ giữ lễ, thậm chí còn tự mình làm mã phu đánh xe.
Vì những giấc mộng liên quan đến Tạ Trì, Phí Văn Nhạn không dám kể rõ đầu đuôi mọi chuyện giữa mình và hắn. Khi nói với Tần Sanh và Lâm Chiêu, nàng chỉ nói lướt ba câu, kể lại việc hắn đòi dải tua để cho qua chuyện.
Tần Sanh trông thì ngơ ngác, nhưng thật ra là người khó bị qua mặt nhất. Nàng chống cằm nhìn chằm chằm Phí Văn Nhạn: “Tại sao Tiểu công gia lại tìm tỷ đòi dải tua?”
“Tiểu công gia vốn hành sự chẳng theo khuôn phép, có khi chỉ là thích hoa văn trên dải tua, hoặc nghĩ ta thất hứa với hắn thôi.” Phí Văn Nhạn nhanh chóng chuyển chủ đề: “A Chiêu, ta thấy Tằng đại nhân đối với muội hình như có gì đó khác thường nha?”
Tằng Đạo Khê đích thân đến hí viện bắt trộm, ngay cả Tần Sanh cũng thấy khó tin. Bị Phí Văn Nhạn nói thế, nàng gật đầu như gà mổ thóc, đôi mắt to tròn đen láy lấp lánh nhìn về phía Lâm Chiêu.
Lâm Chiêu gỡ quyển binh thư đang úp trên mặt xuống, ném bừa lên bàn, mặt mày uể oải: “Một nho sinh cổ hủ cứ lải nhải chuyện báo ân, có gì mà khác thường chứ.”
Tần Sanh và Phí Văn Nhạn lập tức dựng thẳng tai: “Báo ân? Báo cái gì?”
Lâm Chiêu day trán: “Khi Bệ hạ dẫn đại quân quay về Tử Kinh Quan, huynh trưởng ta đã vào đại mạc trinh sát trước, dẫn quân của nghĩa phụ đánh vào trướng của Bắc Nhung. Ta thì hộ tống lương thảo phía sau. Không ngờ lại gặp kỵ binh Bắc Nhung bất ngờ tập kích, lại thêm bão cát ập tới. Tằng đại nhân là quân sư, là đầu não của toàn quân, lúc đó ta chỉ có thể liều mạng đưa hắn thoát thân.”
Lời nàng kể ra nghe đơn giản, nhưng tình cảnh khi ấy nguy hiểm hơn nhiều lần.
Bão cát nổi lên, lương thảo còn chẳng kịp lo, Bắc Nhung còn tranh thủ thời cơ bắn tên truy kích.
Lâm Chiêu biết tuyệt đối không thể để Tằng Đạo Khê chết giữa đại mạc, nàng liều chết bảo vệ hắn.
Nàng bị tên bắn trúng vai, máu chảy không ngừng. Khi liều mạng chém giết cùng kỵ binh địch, vẫn không để lộ chút sợ hãi nào. Mái tóc dài rối bời, khuôn mặt bê bết máu, đôi mắt lại sắc bén không kém gì dã thú.
Đến khi tên kỵ binh cuối cùng ngã xuống, nàng mới kiệt sức chống kiếm, nửa quỳ trên mặt đất.
Trước đó là nàng dẫn Tằng Đạo Khê chạy, giờ đến lượt hắn dắt nàng tìm đường sống.
Họ đã hoàn toàn lạc với quân đội giữa bão cát.
Tằng Đạo Khê gom hết lương khô và nước từ xác ngựa Bắc Nhung, còn giúp nàng sơ cứu vết thương.
Thân thể Lâm Chiêu đầy rẫy vết thương, khủng khiếp nhất là vết sẹo do Khả Đan để lại, kéo dài từ vai trái đến nửa ngực.
Dù đã lành sẹo, vẫn là một vết tích dữ dội.
Ngoài ra, vết tên, vết đao cũng không đếm xuể.
Một nam nhân như Tằng Đạo Khê khi nhìn thấy cơ thể nàng, cũng phải im lặng rất lâu.
Nàng có thể như bao hổ tướng khác đứng thẳng trong đại doanh, chính là nhờ những vết sẹo khắc sâu đó.
Lúc băng bó, động tác của Tằng Đạo Khê nhẹ nhàng đến lạ.
Lâm Chiêu cảm nhận được, chỉ cười nhẹ: “Vết thương này chẳng đáng gì, quân sư không cần bận tâm.”
Vì băng bó, nửa bờ vai và lưng nàng đều lộ ra, trước ngực được quấn kỹ bằng lụa trắng, càng làm nàng thêm gầy yếu.
Ánh hoàng hôn dần dần buông xuống, Tằng Đạo Khê nhìn cô gái với đầy thương tích trước mặt, khẽ nói: “Ta muốn cưới nàng.”
Lâm Chiêu ngẩn tay trong lúc mặc áo, rồi bật cười: “Quân sư, trong quân đâu có chuyện thấy thân thể là phải cưới. Nếu vì điều đó, ta đã chết không dưới chục lần rồi.”
Tối hôm đó họ vẫn chưa tìm được đại quân. Sa mạc chênh lệch nhiệt độ ngày đêm lớn, đêm lạnh đến thấu xương.
Tằng Đạo Khê nhóm lửa bên gốc cây gai, Lâm Chiêu vẫn run rẩy vì lạnh.
Hắn cởi đại bào khoác cho nàng, ngồi bên lửa vừa sưởi vừa xoa tay.
Hắn là văn thần, thân thể yếu hơn nhiều so với võ tướng.
Lâm Chiêu nhất quyết trả áo lại: “Nếu quân sư vì lạnh mà sinh bệnh, hoặc chết ở đây, thì mấy nhát chém ta đỡ lúc trước coi như uổng phí.”
“Lâm hiệu úy bị thương, thân thể suy nhược, nếu có sơ suất gì, ta cũng không biết ăn nói với Lâm tướng quân thế nào.”
Trước sự khước từ của hắn, Lâm Chiêu chỉ trầm mặc một giây, sau đó khẽ nói: “Lại đây.”
Nàng chủ động ôm lấy hắn, dùng đại bào quấn cả hai lại, tựa vào nhau sưởi ấm, giọng nói vẫn lạnh nhạt: “Từ ngày ta bước vào chiến trường, đã chẳng coi mình là nữ nhi. Quân sư cũng không cần kiêng kỵ gì. ‘Há chẳng có áo? Cùng ngươi chung chiến bào’. Ta là tướng sĩ Đại Sở, Bắc Nhung còn chưa đánh lui, ta sẽ không để mình chết ở đây.”
Tằng Đạo Khê không nói gì.
Khi Lâm Chiêu gần thiếp đi, chợt cảm thấy hắn siết chặt vòng tay hơn một chút, rồi giọng nói trầm thấp vang lên: “Ta muốn cưới nàng.”
Không phải vì nhìn thấy thân thể nàng, cũng không vì đêm nay sát gần da thịt.
Chỉ là… đột nhiên cảm thấy tim nhói đau đến mức khó thở.
Lâm Chiêu giả vờ ngủ say, trong bóng tối, hai hàng lệ lặng lẽ tràn mi, thấm vào cổ áo — không để lại dấu vết gì.
Cảm ơn bạn TRUONG THI NGOC HIEN donate 50K!
Có thể một ngày nào đó bạn sẽ không thể truy cập được website Rừng Truyện vì các lý do bất khả kháng. Đừng lo, bạn vẫn có thể đọc tiếp bộ truyện mình yêu thích. Mời bạn tham gia nhóm Rừng Truyện trên Facebook!
Chúng mình đang hết sức cố gắng để duy trì hoạt động của trang web một cách ổn định. Nếu có thể xin vui lòng góp vài đồng ủng hộ bạn nhé!

cảm ơn group rừng và bản dịch giả đã làm bộ này, bộ này drop lâu rồi, mayyyy quá, xin đc donate ủng hộ.
Cảm ơn bạn đã edit, chúc bạn có nhiều sức khỏe ạ
Ủng hộ bộ này, cảm ơn dịch giả nha