Chiêm Mai để tang cha đã tròn hai năm, trong nhà vẫn còn nhiều sắc trắng đơn sơ.
Phụ thân Chiêm Mai qua đời vào đầu xuân năm kia—mùa đông năm trước đó, sau khi Vương Giới xuất gia, Chiêm Mai vội vã rời Kim Lăng mà chẳng kịp từ biệt Trinh Nghi đang lâm bệnh, chính là vì nhận được tin phụ thân trọng bệnh.
Vương Nguyên từng đến Tuyên Thành dự tang lễ, mang theo bài văn tế mà Trinh Nghi viết gửi bá phụ Chiêm gia, cùng lời an ủi dành cho huynh trưởng Chiêm gia.
Dù cách xa vạn dặm, nhưng trong hai năm qua, Chiêm Mai vẫn luôn để ý tin tức về Trinh Nghi.
Hắn biết đến Đức Phong thi xã, biết nàng xướng họa thơ văn cùng người khác, giờ đây cầm trên tay tập sách này, hắn cũng biết nàng đã có chút danh tiếng trong giới toán học Giang Nam.
Chiêm Mai có thể tưởng tượng ra nhị muội nay tất bật mà viên mãn, hơn nữa là bận rộn vì việc mình yêu thích, quả thực không gì tốt hơn thế.
Tháng tư, hắn thậm chí còn nghe nói Trinh Nghi đang bận bịu tranh luận với người khác.
Có kẻ sĩ công khai làm thơ châm biếm nàng cùng bằng hữu, chỉ trích nữ tử lập hội thơ truyền bá ra ngoài là tà phong bất chính.
Trinh Nghi liền thẳng thắn đáp trả:
“Kẻ nệ cổ cố chấp trong thiên hạ này, hễ mở miệng liền cho rằng phụ nữ không nên lấy việc đọc sách làm trọng.
Nhưng nam nữ vốn đồng là con người, tức cũng đồng tâm tính.
Lục Kinh, chư thư đều dạy người tu thân, tề gia, hành thiện, lẽ nào lại chỉ đặt ra cho riêng bậc trượng phu?”
Bài văn này vừa truyền ra đã dấy lên một hồi sóng gió, nhưng ngược lại càng khơi dậy nhiệt huyết của nhiều nữ tử, ai nấy nối tiếp làm thơ hưởng ứng.
Trong một thời gian ngắn, phong trào ấy ngày càng lan rộng, khiến đám kẻ sĩ từng ra thơ đả kích kia không chỉ tự chuốc lấy thất bại, mà còn vô tình làm bàn đạp cho Đức Phong thi xã phát triển.
Thử hỏi, có nực cười chăng?
Giữa tiếng ve râm ran của mùa hè oi ả, danh tiếng của Trinh Nghi càng vang xa.
Người đến tận cửa hoặc gửi thư nhờ nàng viết lời tựa, đề thơ không hề ít.
Nàng đều vui vẻ đáp ứng, mãi đến tháng bảy, phu nhân của một vị đạo đài ở Chiết Giang cho người mang thư cùng một quyển kinh Phật chép tay đến.
Năm nay, Chiết Giang gặp đại hạn, vụ mùa thu chắc chắn thất thu.
Vị đạo đài ấy muốn xây chùa cầu phúc cho dân, phu nhân Triệu thị của ông ta cũng nguyện bỏ ra năm trăm xâu tiền làm hương hỏa, lại chép tay kinh Phật, mong được Trinh Nghi viết lời tựa.
Nhưng suốt một tháng trôi qua, vẫn chẳng thấy Trinh Nghi hồi âm.
Phu nhân Triệu lại gửi thư thúc giục, lời lẽ không khỏi có phần trách cứ, chất vấn rằng nếu nàng chậm trễ việc kính Phật, để Phật tổ giáng tội, liên lụy đến bách tính vô tội, nàng có gánh nổi hậu quả hay không?
Lúc đầu, Trinh Nghi chỉ xem như không thấy, nhưng nay thấy phu nhân kia dây dưa không buông, thậm chí trách tội nàng, nàng cũng không im lặng nữa.
Nàng hồi âm thẳng thắn: “Nếu phu nhân thật lòng nhân thiện, cớ gì phải lập chùa phụng thờ thần Phật hư giả?
Nếu đã có lòng bỏ ra số tiền lớn như vậy, sao không dùng để cứu tế bách tính, chẳng phải càng thiết thực hơn ư?”
Vốn tôn thờ Phật pháp nhiều năm, phu nhân đạo đài giận dữ khôn xiết.
Không lâu sau đó, cái danh “cuồng sĩ nơi khuê phòng” liền gán lên người Trinh Nghi, rầm rộ truyền khắp Giang Chiết.
Điều này làm Thục Nghi sợ hãi không thôi, nhưng Trinh Nghi lại chẳng bận tâm, vừa bóc hạt ấu vừa đáp:
“Đại tỷ, không sao đâu.
Cuồng sĩ cũng vẫn là sĩ mà.”
Thục Nghi nghe vậy mà nhức đầu, than thở: “Muội à… những lời đàm tiếu ngoài kia nào phải dễ chịu đâu?
Như vậy rồi, chỉ e chuyện hôn sự lại càng khó khăn hơn… Muội lại cứ chạy sang chỗ ta mãi, suốt ngày lộ diện ngoài kia, thế thì phải làm sao đây…”
Nàng còn định trách mắng thêm, nhưng thân thể Trinh Nghi đã nghiêng về phía nàng, vòng tay ôm lấy nàng, ngửa mặt trong lòng nàng nói:
“Đại tỷ, muội chỉ muốn gặp tỷ và Thiện nhi nhiều hơn, nào có gì sai?
Cứ mặc thiên hạ đàm tiếu, dù gì muội cũng chẳng mất một miếng thịt nào.
Vì chút lời ong tiếng ve mà phải kiềm nén tình thân, rõ ràng ở cùng một thành, lại chẳng được tự do gặp mặt, chẳng phải nghịch luân trái đạo ư?”
Từ sau khi tam phu nhân qua đời, Vương Giới xuất gia, Trinh Nghi không còn kìm nén tình cảm của bản thân.
Hễ có thời gian, nàng lại chạy sang tìm đại tỷ.
Nhìn nhị muội trong lòng mình thân mật như thuở bé, trái tim Thục Nghi mềm nhũn: “Sao càng lớn lại càng thích làm nũng thế này?
Không sợ bị người ta cười à…”
Trinh Nghi cười đáp: “Cứ mặc họ cười đến tận trời đi, muội vẫn cứ muốn gặp đại tỷ.”
Thục Nghi bị nàng quấn lấy đến mức không biết làm sao, nhưng trong lòng lại thấy ấm áp tựa ngâm mình trong suối nước ấm.
Khi người ta hạnh phúc, thư thái, sẽ dễ dàng nói đến những chuyện nhỏ nhặt đời thường.
Thục Nghi bèn thuận miệng hỏi:
“Hôm nay sao không thấy Quýt đi cùng?”
Quýt đã quá già, già đến mức chỉ cần không thấy nó một ngày, mọi người đều nghi hoặc nó đã chui vào góc nào đó rồi đi mất.
Già đến nỗi có lần Vương Nguyên bảo:
“Quýt thọ thế này, chẳng lẽ là thần vật từ trời?
Nếu ta dâng nó vào cung cho Hoàng thượng, biết đâu có thể đổi được một chức quan?”
Câu nói ấy đương nhiên khiến Quýt vung mèo quyền dạy dỗ một trận.
Nhưng Quýt thực sự đã bắt đầu cảm thấy lực bất tòng tâm, vì vậy, nó bắt đầu có ý thức bảo dưỡng thân thể.
Giờ đã sang tiết thu, nó không còn theo Trinh Nghi ra ngoài nữa.
Nó muốn cùng trời đất vạn vật vào thu, thu mình lại, sống thật lặng lẽ, cố gắng không để Diêm Vương gia chú ý.
Mục tiêu trước mắt của Quýt là sống đến tám mươi tuổi, nó muốn bầu bạn với Trinh Nghi đến thật lâu, thật lâu về sau.
Con mèo lười biếng thu chân lại, cuộn tròn dưới hiên nhà, ngước nhìn cây hồng trong sân trĩu quả, trong lòng cảm thấy mãn nguyện vô cùng.
Cây hồng ra quả sum suê, còn Trinh Nghi cũng đang kết những quả của riêng mình.
Một thiên tài như nàng, đến khi tám mươi tuổi, không biết sẽ kết bao nhiêu quả đây?
Quýt thả hồn suy nghĩ, lòng vui vẻ khép mắt lại, cảm thấy khắp thân mình như đang vây kín bởi những trái chín thơm lành.
Trời đã về chiều, khi Trinh Nghi trở về nhà cũng vừa lúc Vương Nguyên quay lại từ quán canh để lấy đồ.
Hắn đầy tự hào khoe rằng gần đây có rất nhiều khách trong quán hỏi thăm về nhị muội của mình:
“Mọi người đều nói Vương gia ta có một nữ tiên sinh thật lợi hại!”
Vào buổi hoàng hôn đầu thu, cả nhà ngồi trước sảnh, dẫn theo mấy đứa trẻ nhỏ, cùng nhau trò chuyện chuyện nhà.
Vương Tích Thụy dĩ nhiên cũng lấy làm vẻ vang vì tài danh của cháu gái, nhưng cứ nói được vài câu lại quay sang trách mắng Vương Nguyên.
Nghĩ đến trưởng tôn của mình chẳng có chút thiên phú đọc sách nào, ngược lại còn di truyền tính tình lêu lổng của Vương Nguyên, ông không khỏi bực bội mà lại trách con trai:
Vương Nguyên cãi lại vài câu, Vương Tích Thụy liền giơ gậy định đánh.
Hắn né nhanh, không chút liêm sỉ kéo Tĩnh Nghi – đang cầm trống bỏi dỗ hai bé song sinh – ra làm lá chắn:
“Phụ thân muốn đánh cũng nên đánh người của nhị phòng chứ!
Tĩnh Nghi đọc sách cũng lợi hại y hệt, rõ ràng là nhị phòng đã trộm hết tài khí của đại phòng chúng ta rồi!
Con cũng là nạn nhân bị mất cắp, phụ thân phải đánh kẻ trộm mới hợp lẽ chứ!”
Đại phu nhân cười mắng: “Ngươi cũng lớn tướng rồi mà còn lấy muội muội làm lá chắn, đúng là đáng đánh mà!”
Trinh Nghi bật cười, gạt tay đại ca ra, kéo Tĩnh Nghi trở lại bên mình, giúp muội muội vuốt phẳng nếp áo nhăn.
Mọi người vừa cười vừa đùa một trận, cuối cùng Vương Tích Thụy thở dài:
“Phải rồi, nhà chúng ta có một nữ tiên sinh… Nếu phụ thân ta dưới suối vàng có biết, hẳn cũng thấy an ủi lắm.”
Nhắc đến tổ phụ đã qua đời nhiều năm, trong đầu Trinh Nghi vẫn nhớ rõ gương mặt ông.
Nhưng nữ tiên sinh… nữ tiên sinh…
Nàng thầm nhẩm đi nhẩm lại mấy lần trong lòng, vẫn cảm thấy danh xưng này không thực sự thuận tai.
Mùa thu này, Trinh Nghi đã chính thức hoàn thành tác phẩm toán học đầu tiên của mình – Lịch Toán Giản Tồn.
Bộ sách này gồm năm quyển – trước đây nàng gửi Tiền Nghi Cát mới chỉ là quyển đầu tiên mà thôi.
Để hoàn thiện toàn bộ năm quyển, nàng đã dốc sức trong suốt hơn nửa năm, mà phía sau đó, là thành quả của mười mấy năm tích lũy, tổng kết, tìm tòi, suy ngẫm và thực hành không ngừng.
Dựa trên Lịch Toán, bộ sách này giản lược hóa lý luận của người đi trước, đồng thời bổ sung thêm ứng dụng thực tiễn, trở thành một tác phẩm nổi bật trong lĩnh vực này.
Nó chắc chắn sẽ như một tiếng sấm vang rền trong màn đêm yên tĩnh.
Mà người đã đánh lên tiếng sấm đó, lại là một nữ tử vừa tròn hai mươi bốn tuổi.
Truyện được dịch đầy đủ tại maivangtet.vn
Dưới ánh đèn nơi án thư, Trinh Nghi cầm bút viết lời tựa cho Lịch Toán Giản Tồn. Ở dòng cuối cùng, nàng cẩn thận từng nét chữ viết:
“Kim Lăng nữ sử Vương Trinh Nghi, Đức Khánh thị soạn, khi ấy hai mươi bốn tuổi.”
Nắng thu vàng rực chiếu lên chân mày nàng, như điểm thêm một phần hào khí và kiêu hãnh.
Nàng đáng có chút kiêu hãnh, bởi nàng mới chỉ hai mươi bốn tuổi, hơn nữa lại lấy thân nữ nhi không được coi trọng để làm nên chuyện này.
Trong hành trình ấy, nàng tìm thấy cảm giác tồn tại và thành tựu mà bản thân khao khát.
Dù bộ sách này có được khắc in truyền thế hay không, chí ít vào giờ phút này, nàng đã làm được.
Gió từ ngoài cửa sổ lùa vào, thổi bay tờ giấy ghi tựa đề.
Quýt – con mèo đang cuộn tròn trên bàn – liền giơ móng vuốt chặn lại vô cùng thành thạo.
Trinh Nghi bật cười, nắm lấy bàn chân lông xù của nó, chấm mực, nhẹ nhàng in một dấu móng mèo lên ngay cạnh ba chữ Vương Trinh Nghi trên tờ tựa đề, như một đóa mai nhỏ bé.
Nhưng dã tâm của nàng không chỉ dừng lại ở Lịch Toán Giản Tồn.
Những hòm gỗ chất đầy gần như cả gian phòng kia đựng đầy bản thảo, từng tờ giấy đều là kết tinh từ tháng năm tôi luyện.
Trinh Nghi chưa bao giờ ngừng dõi theo bầu trời sao trên đỉnh đầu, thậm chí niềm say mê toán học của nàng vốn dĩ cũng bắt nguồn từ thiên văn—
Từ nhỏ, tổ phụ đã nói với nàng:
“Toán học có thể truy nguyên bản chất chân thực của vạn vật thế gian.”
Trinh Nghi muốn lấy toán học làm thang, để khám phá bí ẩn trên bầu trời cao vạn trượng, dù chỉ là chạm đến một góc rất nhỏ của nó.
Đây là một con đường vô cùng gian nan.
Triều đại trước từng nghiêm cấm dân gian nghiên cứu thiên văn lịch pháp, khiến học thuật này đình trệ hàng trăm năm.
Nhiều thư tịch quý giá liên quan cũng vì thế thất truyền… Do vậy, muốn học thiên văn trong thời đại này chẳng khác nào với lên trời.
Những gì nàng có thể dựa vào chỉ là vài cuốn sách cổ mà tổ phụ để lại, cùng với một số bản chép tay từ phương Tây mà nàng tìm được trong những năm qua.
Công cụ quan sát của nàng cũng chỉ là đôi mắt cùng một chiếc ống ngắm đơn sơ, và vài món khí cụ thiên văn bằng đồng đơn giản đến mức khiến Quýt cũng thấy chạnh lòng.
Mỗi lần nhìn thấy nàng loay hoay với đống đồ cũ kỹ kêu lách cách kia, Quýt lại thấy thật đáng thương cho nàng.
Nó thường nghĩ, nếu có thể đưa Trinh Nghi đến thế kỷ 21, nó nhất định sẽ để nàng dùng những thiết bị hiện đại nhất, tối tân nhất.
Còn tiền đâu ra ư?
Chuyện này Quýt chưa nghĩ tới, nhưng nó vốn dĩ rất tự tin.
Ngày qua ngày, Trinh Nghi kiên trì ghi chép quỹ đạo vận hành của các vì sao bằng mắt thường.
Mỗi khi nàng xâu chuỗi những tờ bản thảo thành tập, Quýt đều biết lại một tháng nữa trôi qua rồi.
…
Cuối tháng tám, gió thu đã bắt đầu se lạnh.
Một giấc ngủ dậy, lá rụng đã phủ kín sân vào sáng sớm.
Tĩnh Nghi chưa kịp chải đầu, đã kéo tỷ tỷ ra khỏi phòng, hứng khởi đòi cùng tỷ làm thơ.
Trinh Nghi cũng mới chải đầu được một nửa, nhưng vẫn thuận theo ý muội muội.
Quýt ngồi trên ghế trong chính sảnh, nhìn hai tỷ muội tóc xõa, đứng giữa sân ngâm thơ dưới tiết thu, lòng nó hân hoan mà nheo mắt lại.
Buổi trưa, Trinh Nghi đưa Tĩnh Nghi đến y quán của phụ thân giúp đỡ, đến hoàng hôn, ba cha con cùng nhau đội mưa nhỏ về nhà.
Trên đường, Tĩnh Nghi lại nổi hứng làm thơ, Trinh Nghi cười khen:
“Bài này hay, giữ lại đi.”
Tối hôm ấy, sau khi được tỷ tỷ khen ngợi, Tĩnh Nghi liền dùng nét chữ tiểu khải đoan trang viết xuống bài thơ Tân Thu Thi:
“Khúc kính tàn đài bích, dao sơn tịch chiếu minh.
Yểm thư khai tú mạc, đối cúc xuất ngân oanh.
Hư thất hào trần viễn, tân lương hãn mặc thanh.
Vãn phong xuy vũ quá, tiêu diệp tác thu thanh.”
Trinh Nghi nhìn muội muội nằm bò trên án thư cặm cụi viết thơ, càng ngắm càng thấy đáng yêu vô cùng.
Để ghi nhớ đêm nay, nàng cũng đi tới, chắp bút viết thêm một bài.
Tĩnh Nghi nghiêng đầu, chăm chú đọc những gì tỷ tỷ vừa viết.
Tựa đề của bài thơ là:
“Tân Thu Đồng Nhị Muội Tác——”
“Tỉnh ngô sơ diệp hạ, thu khí nhật tiêu sâm.
Thụy hạc hữu tiên ý, tư thiền khởi đạo tâm.
Kiểm phương nhân giảo dược, án phổ học đàn cầm.
U thú tư thiên hiệp, phi quan ái khổ ngâm.”
Mùa thu trong thơ của hai tỷ muội dần xa, nhường chỗ cho những tán lá xanh vàng phủ đầy sân viện bị thay thế bằng bông tuyết trắng xóa.
Tiết Đại Tuyết năm nay cũng đến đúng như hẹn ước.
Quýt khoác lên người chiếc áo bông hoa nhỏ dày dặn, ngồi thu mình trên bệ cửa sổ, nhìn Trinh Nghi cùng Tĩnh Nghi đùa nghịch giữa sân tuyết.
Đợi đến khi muội muội chơi mệt, Trinh Nghi bèn bẻ một cành cây, viết lên nền tuyết một bài thơ mùa đông dành riêng cho muội.
Tựa đề là:
“Lung Đông Đồng Nhị Muội Tác——”
Dưới ánh trăng giữa trời tuyết, Tĩnh Nghi nép vào lòng tỷ tỷ, nghiêm túc đọc bài thơ mà tỷ vừa viết trên nền tuyết:
“Hạo nguyệt nghi như tuyết, lưu quang giám bích ba.
Hàn thanh yết lâu cổ, thanh ảnh hạ đình khoa.
Trần sự sầu trung tận, thi tình bệnh hậu đa.
Đàm thâm bất tuy thụy, khởi vấn dạ như hà…”
Tĩnh Nghi cũng muốn viết một bài, nhưng cầm cành cây trên tay, mãi vẫn chưa tìm được câu nào ưng ý.
Viết rồi lại gạch đi, chẳng mấy chốc, mặt tuyết dưới chân bị nàng cào xới loạn xạ.
Nhìn thấy muội muội lại ho khan, Trinh Nghi không chấp nhận lời phản đối nào, mạnh mẽ kéo nàng về phòng.
Tĩnh Nghi bất mãn, nũng nịu phản đối:
“A tỷ!
Hôm nay vừa đúng là ngày đầu tiên của tiết Đại Tuyết, đúng là lúc thích hợp nhất để làm thơ về tiết khí.
Nếu bỏ lỡ thì phải chờ thêm một năm nữa đó!”
“Vậy thì chờ thêm một năm thôi, sao phải lo lắng vì một năm này chứ.”
Trinh Nghi kéo tay muội muội, cười giành lấy cành cây trong tay nàng: “Chỉ cần muội yên tâm dưỡng bệnh, sang năm Đại Tuyết, a tỷ lại bẻ cành giúp muội viết thơ.”
Xuân Nhi vừa lúc bưng chén thuốc vào, thuận miệng hùa theo:
“Đúng đúng đúng, làm thơ không vội một lần, nhưng uống thuốc thì lần nào cũng không thể trì hoãn.
Uống thuốc còn quan trọng hơn cả đọc sách viết thơ nhiều đấy!”
Tĩnh Nghi sinh ra đã mang bệnh, bao năm qua chưa từng dứt thuốc thang.
Lúc ấy, Vương Tích Thâm giẫm lên tuyết trở về từ y quán, chỉ thấy trong sảnh đường được ánh đèn đậu dầu chiếu sáng, Trinh Nghi đang cười nói, dịu dàng dỗ muội muội uống thuốc.
Nghe thấy tiếng bước chân ngoài cửa, hai tỷ muội đồng loạt quay đầu nhìn, hai gương mặt một trước một sau cất tiếng gọi:
“A cha.”
Con mèo đang cuộn tròn trên ghế cũng lười biếng phụ họa một tiếng: “Meo~~”
Vương Tích Thâm bật cười đáp: “Ừ.”
Chỉ một chữ đơn giản ấy cũng đủ khiến cơn lạnh giá trên người ông tan biến hết thảy.
Ông bước vào sảnh, đón lấy chén trà nóng từ tay Xuân Nhi, bắt đầu kể chuyện xảy ra ở y quán hôm nay…
Cảm ơn bạn Nguyễn Đăng Thúy Quyên donate cho team 50K!
Có thể một ngày nào đó bạn sẽ không thể truy cập được website Rừng Truyện vì các lý do bất khả kháng. Đừng lo, bạn vẫn có thể đọc tiếp bộ truyện mình yêu thích. Mời bạn tham gia nhóm Rừng Truyện trên Facebook!
Chúng mình đang hết sức cố gắng để duy trì hoạt động của trang web một cách ổn định. Nếu có thể xin vui lòng góp vài đồng ủng hộ bạn nhé!

Chưa có thảo luận nào cho bộ truyện này.